Các nhóm di tích Cố_đô_Hoa_Lư

Ngay sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, dân chúng từ bên ngoài kéo vào kinh thành sinh sống. Chính vì vậy mà ngoại trừ khu trung tâm cung điện giới hạn bởi ba cửa: cửa Bắc, cửa Đông và cửa Nam thì rất nhiều các công trình kiến trúc của cố đô Hoa Lư hiện tại nằm rải rác trong khu dân cư. Các di tích do 2 triều Đinh-Lê xây dựng gồm: dấu tích kinh thành, cung điện, các chùa cổ và các đền thờ thần. Các di tích do các triều đại sau xây dựng gồm hệ thống lăng mộ, đền, đình thờ các danh nhân thời Đinh Lê. Tuy nhiên, các di tích thường có sự pha trộn kiến trúc do hoạt động tu bổ vì vậy mà các nhà nghiên cứu phân nhóm các di tích Hoa Lư theo loại di tích. Từ những di tích này các nhà nghiên cứu có thể hình dung được hình thức bố trí cung điện của kinh đô xưa.[13]

Kiến trúc đền thờ

Cổng vào đền vua Đinh Tiên Hoàng, 1/2010

Đền Vua Đinh Tiên Hoàngđền Vua Lê Đại Hành được xây dựng từ thời nhà Lý và xây dựng lại từ thời Hậu Lê theo kiểu nội công ngoại quốc và mô phỏng kiến trúc kinh đô xưa là 2 di tích quan trọng của khu di tích. Trước mặt đền Đinh là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên ngựa, trên núi có lăng mộ vua Đinh. Đền Đinh Tiên Hoàng là một công trình kiến trúc độc đáo trong nghệ thuật chạm khắc gỗ của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17 và là công trình nghệ thuật đặc sắc với nhiều cổ vật quý hiếm được bảo tồn, như gạch xây cung điện có khắc chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên, cột kinh Phật khắc chữ Phạn, các bài bia ký…[14] Chính cung đền thờ Đinh Tiên Hoàng và 3 hoàng tử: Đinh Liễn, Đinh Đế ToànĐinh Hạng Lang. Tòa thiêu hương đền có bài vị thờ 4 vị quan trung thần là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Trong nhà Khải Thánh có tượng thờ quốc lão Đinh Công Trứ và thái hậu Đàm Thị là phụ mẫu của Đinh Tiên Hoàng.

Đền Vua Lê Đại Hành nằm cách đền vua Đinh Tiên Hoàng 300 mét. Đền vua Lê quy mô nhỏ hơn nên không gian trong đền khá gần gũi và huyền ảo. Nét độc đáo ở đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm gỗ thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Tương truyền, bà mẹ mơ thấy hoa sen mà sinh ra Lê Hoàn, trong lúc đi cấy ở cạnh ao sen. Bà đã ủ Lê Hoàn trong khóm trúc và được con hổ chúa rừng xanh ấp ủ. Sau lời cầu xin của bà mẹ con hổ bỏ đi. Vì vậy mà nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam của các nghệ nhân ở đây cũng thống nhất với truyền thuyết về các đề tài ca ngợi Lê Hoàn. Chính cung đền thờ Lê Hoàn, Dương Vân Nga và Lê Long Đĩnh, tòa thiêu hương có bài vị thờ Phạm Cự Lượng, người có công cùng với Dương Vân Nga đưa Lê Hoàn lên ngôi.[15]

Đền thờ Công chúa Phất Kim được xây dựng từ thời nhà Tiền Lê. Đền nằm gần đền thờ Lê Hoànchùa Nhất Trụ. Tương truyền vị trí này nằm trên nền nhà của cung Vọng Nguyệt, nơi trước đây bà đã ở. Chiếc giếng bà nhảy xuống tự vẫn đến nay vẫn còn trước của đền.[16] Đền thờ Phất Kim là một ngôi đền cổ suy tôn người phụ nữ thế kỷ X, hiền lành, trung hậu và chịu nhiều sóng gió cuộc đời; giá trị tâm linh của ngôi đền còn thể hiện ở ý nghĩa: dù thời thế có đổi thay, thăng trầm nhưng cội nguồn văn hóa cổ là mãi mãi trường tồn.

Đền Vua Lý Thái Tổ là dự án được xây dựng từ nguồn vốn kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội. Sự xuất hiện ngôi đền này ở Hoa Lư khẳng định lại nhận thức của người Việt về vai trò của Hoa Lư đối với Lý Thái Tổ và ngược lại.[17] Đây là ngôi đền đầu tiên thờ riêng Lý Thái Tổ, có phối thờ cùng Lý Thái Tông và hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân - những người con của kinh đô Hoa Lư. Ngôi đền này không có kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc như đền Đinh Lê mà nó mang dáng dấp của một ngôi chùa. Dự án đang triển khai thì phải đình lại do phát hiện các di tích khảo cổ trong lòng đất.

Cổng đông vào cố đô

Các vị thần trấn giữ ba hướng cửa vào thành ngoài, thành trong và thành nam được Vua Đinh Tiên Hoàng cho xây dựng đền thờ gồm trấn đông, trấn tây và trấn nam.

  • Động Thiên Tôn thờ thần Thiên Tôn, là vị thiên thần trấn đông hướng mặt trời mọc. Xưa nơi đây là tiền đồn để trình báo khi vào kinh đô Hoa Lư từ phía Đông. Trước lúc đem quân đi dẹp loạn 12 sứ quân, Vua đã sửa lễ vật vào cầu đảo trong động để mong được thần giúp đỡ. Về sau nơi đây nhà vua cho xây cất nhà Tiền Tế và Kính Thiên Đài là nơi tiếp đón các sứ thần nước ngoài trước khi nhà vua cho vào bệ kiến.
  • Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một vị thần núi ở Phụng Hóa (Nho Quan - Ninh Bình) mà từ nhỏ Đinh Bộ Lĩnh đã được mẹ đưa vào sống cạnh đền sơn thần trong động, vị thần sau này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục nên cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ ở trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn. Cao Sơn đại vương khi đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng).[18] Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được Vua Đinh cho phép dân lập đền thờ.
  • Đền Trần thờ thần Quý Minh, là vị thủy thần trấn ải Sơn Nam nằm ở vùng sông núi Tràng An. Đền do vua Đinh Tiên Hoàng xây dựng cùng thời với đền Hùng, sau này vua Trần Thái Tông về đây tu hành cải tạo bề thế hơn với các cột đá, đổi tên thành đền Trần,[19][20] là nơi thờ thần Quý Minh, vị thần trấn cửa ải phía nam Hoa Lư từ thời Hùng Vương thứ 18. Đền còn có tên là đền Nội Lâm (cùng với Vũ Lâm, Văn Lâm hợp thành Tam Lâm dưới triều Trần).

Kiến trúc đình làng

Ngoài các đền thờ 2 vua Đinh, Lê thuộc sở hữu cộng đồng thì ngay trong kinh thành Hoa Lư, người dân cố đô vẫn lập những ngôi đình riêng của mỗi làng để thờ 2 vị vua này, đó là các di tích thuộc sở hữu của 7 làng cổ thuộc xã Trường Yên.

  • Đình Yên Thành nằm cạnh chùa Nhất Trụ, thuộc làng cổ Yên Thành là nơi trung tâm nhất của cung điện Hoa Lư xưa. Đình làng Yên Thành thờ cả hai vua Đinh - Lê làm thành hoàng. Làng cổ Yên Thành được giới hạn bởi 3 cổng chốt: cửa bắc vào trung tâm di tích Hoa Lư, cửa bắc vào kinh đô Hoa Lư xưa tại vị trí cầu Dền và cầu Đông nối với làng Yên Thượng. Đây là một làng cổ có vai trò trung tâm kết nối không gian giao thông và văn hóa với các làng lân cận của Hoa Lư tứ trấn. Làng nằm khá biệt lập, ba mặt giáp sông Sào Khê ngăn cách với làng Yên Thượng, phía nam giáp với các di tích trung tâm cố đô Hoa Lư, phía tây giáp với núi Đìa, núi Chợ. Làng Yên Thành được chia thành 4 thôn: Đông, Đoài, Nam, Bắc. Đây là làng duy nhất ở Trường Yên chia thôn theo các hướng cổ truyền Việt Nam. Trung tâm xã Trường Yên thuộc làng này.
  • Đình Yên Trạch thờ Vua Đinh Tiên Hoàng. Đình nằm ở làng cổ Yên Trạch, cách trung tâm quảng trường cố đô 2 km. Đình Yên Trạch nằm phía đông bắc của xóm Đình. Phía nam giáp đất thổ cư của dân xóm Đình, ba phía còn lại giáp với hồ, ruộng canh tác. Đình toạ lạc trên khoảng đất rộng, cao ráo. Đình được xây dựng quay hướng đông bắc, trông ra dãy núi Bên Bến, bên phải có núi Sách Sẻ cheo leo, bên trái xa xa có núi Rùa, tạo thế núi chống đỡ với trời cao. Phía trước có sông Phúc Hầu chảy từ sông Hoàng Long, qua núi Đông Lâm, vòng qua bên phải của Đình, tạo thuỷ tụ về. Theo thuật phong thuỷ và theo các cụ trong làng cho rằng có sơn tất có thuỷ tạo cảnh hữu tình nên đã cho đào hồ trước cửa và bên trái của Đình. Bên phải của Đình là đường đi giáp với sông Phúc Hầu.
  • Đình Yên Hạ thờ Vua Lê Đại Hành.
  • Các đình làng Yên Trung, Yên Thượng, Chi Phong, Lạc Hối đã bị phá hủy trong chiến tranh, hiện đã có kế hoạch phục dựng.

Kiến trúc chùa cổ

Bài chi tiết: Các chùa ở Hoa Lư

Sau khi đã là kinh đô, Hoa Lư dần trở thành trung tâm Phật giáo. Theo các thư tịch và dấu vết còn sót lại, vào thế kỷ 10, tại đây đã có khá nhiều chùa tháp như chùa Bà Ngô, chùa Cổ Am, chùa Duyên Ninh, chùa Am Tiên, chùa Tháp, chùa Bàn Long, chùa động Thiên Tôn, chùa Hoa Sơn (nhà Đinh); chùa Kim Ngân, chùa Nhất Trụ, chùa Đẩu Long (nhà Tiền Lê). Theo chính sử, Vua Đinh Tiên Hoàng là người đầu tiên đặt chức tăng thống phật giáo trong lịch sử mà quốc sư đầu tiên của Việt Nam là Khuông Việt. Điều độc đáo ở đây là có khá nhiều chùa được xây dựng trong các hang núi đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn núi đá làm chùa mà tiêu biểu là các động chùa: Hoa Sơn, Thiên Tôn, Bích Động, Địch Lộng, Bái Đính, Linh Cốc…

Thạch kinh chùa Nhất Trụ

Chùa Nhất Trụ (hay chùa Một Cột) cùng với đình Yên Thành tọa lạc ở gần đền Vua Lê Đại Hành, được Vua Lê Đại Hành xây dựng để mở mang phật giáo. Hiện còn cột kinh Phật trước chùa vẫn giữ nguyên vẹn từ nghìn năm trước, được coi là thạch kinh cổ nhất Việt Nam.[21]

Chùa Bái Đính gồm có một khu chùa cổ và một khu chùa mới với đền thờ đức Thánh Nguyễn, hang động sáng thờ Phật, hang động tối thờ Tiên và đền thờ thần Cao Sơn. Quần thể chùa Bái Đính nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần.[22] Chùa Bái Đính được các báo giới tôn vinh là khu chùa lớn nhất Đông Nam Á. Đây là một siêu chùa thuộc khu di tích cố đô Hoa Lư với nhiều kỷ lục được xác lập. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng.[23]

Chùa Bà Ngô được xây từ thời nhà Đinh. Nằm bên phải bờ sông Hoàng Long thuộc khu vực ngoại vi thành Hoa Lư xưa. Tấm bia đá dựng ở chùa, niên đại 1877 có đoạn: "Chùa Bà Ngô trong ấp ta là một danh lam của đô cũ Đại Việt trước. Vốn là một danh thắng nhưng do thế đại chuyển dời, phong quang thay đổi, am ngọc quạnh quẽ dưới ánh dương tà, chùa báu điêu tàn trơ trọi trong ánh trăng đêm". Tương truyền là nơi hoàng hậu mẹ Ngô Nhật Khánh tu hành. Trong chùa có bức đại tự thời Nguyễn ghi 3 chữ Bà Sa tự. Theo từ điển Hán Việt, Sa có nghĩa là nhiều khổ não. Chùa Bà Ngô ở thế kỷ thứ X chính là nơi tiến hành nghi thức sám hối, rửa sạch mọi tội lỗi nghiệp chướng trần gian. Tại đây còn khai quật được ngôi mộ cổ thời Hán – Đường.[24]

Chùa Bàn Long cũng được hình thành từ thời Đinh. Khi chúa Trịnh Sâm đã đến thăm, tay đề ba chữ lớn: "Bàn Long Tự" trên vách cửa động. "Bàn Long" là bệ rồng - bệ đá rồng ngồi. Tấm bia ở vách núi khắc vào thế ký 16 có ghi: "Từ thành cổ Hoa Lư men theo núi đá mà đi về phía nam đến làng Khê Đầu, ở đó có chùa Bàn Long. Đây là danh thắng từ ngàn xưa. Trải các triều Đinh, Lê, Lý, Trần chùa này càng thêm nổi tiếng".[25]

Chùa Tháp là ngôi chùa cổ mà nay chỉ còn lại vết tích ở nền sông Hoàng Long. Trong số tảng đá chân cột, có những viên hình vuông cạnh hơn 1 m và vòng tròn ở giữa có đường kính 0,68 m. Chùa tên là chùa Tháp vì có tháp Báo Thiên thời Đinh-Lê.[26]

Chùa Kim Ngân là một ngôi chùa cổ nằm ở thôn Chi Phong, thuộc vòng thành trong ở phía tây, xưa là nơi cất giữ vàng bạc từ khi vua Lê Đại Hành cày tịch điền ở ruộng Kim Ngân. Chùa Duyên Ninh xưa là nơi vui chơi của các công chúa, nơi đây Lý Thái Tổ và công chúa Lê Thị Phất Ngân đã thề hẹn ở đó mà sinh ra Lý Thái Tông.[27]

Hoa Sơn động nằm ở Áng Ngũ, xã Ninh Hòa, ở độ cao gần 70 mét. Tương truyền động Hoa Sơn là nơi nuôi Ấu chúa thời vua Đinh. Tên trước của động là chùa Bà Đẻ, sau vua Tự Đức đến thăm đã đặt lại tên động là Hoa Sơn.[28]

Chùa động Am Tiên như một thế giới riêng biệt. Có một tấm bia cổ, từ thời Lý, chữ đã mờ hết đọc không được. Nhưng tấm bia dựng thời vua Ðồng Khánh, chữ viết còn rõ ràng, nói về việc tu sửa chùa và động. Đây là nơi vua Đinh Tiên Hoàng nuôi hổ báo để trừng trị những người phạm tội nặng. Đến thời Lý, nhà sư Nguyễn Minh Không đã ở trong hang tụng kinh thuyết pháp, xây bệ thờ Phật ở trong hang, người đời sau mới mở ra cảnh chùa chiền để khách thập phương hành hương đến đó.

Chùa Am thuộc thôn Yên Trung, nằm ở phía tây bắc núi Đìa; chùa Đìa thuộc thôn Yên Thành, nằm ở phía đông nam núi Đìa, xã Trường Yên. Đây là hai chùa cổ thời Đinh xây dựng theo kiểu động chùa, tựa lưng vào núi.

Hệ thống lăng, bia

Nhà bia Lý Thái Tổ là di tích được thành phố Hà Nội xây dựng tại cố đô Hoa Lư.[29] Sau khi dời đô về Thăng Long, nhà Lý vấn kế thừa các thành quả có được từ kinh đô Hoa Lư trước đó. Để tưởng niệm công lao đặt nền móng xây dựng độc lập tự chủ của đất nước và nhớ đến Cố đô Hoa Lư, nhà Lý đã lấy tên một số công trình ở Hoa Lư đặt cho nhiều khu vực ở Thăng Long mà chúng vẫn tồn tại đến tận nay như: Ô Cầu Dền, phố Tràng Tiền, phố Cầu Đông, chùa Một Cột, ngã ba Bồ Đề, cống Trẹm, tháp Báo Thiên...[13]

Lăng vua Đinh và lăng vua Lê đều xây từ năm 1840 và được trùng tu vào năm 1885[30] nên khá khiêm nhường và cổ kính. Lăng vua Đinh xây bằng đá, được đặt trên đỉnh núi. Trước lăng một tấm bia đá có đề chữ mà qua đó, người đời sau biết được lăng được xây dựng từ năm Minh Mạng thứ 21 và đến năm Hàm Nghi thứ nhất có trùng tu lại. Lăng Vua Lê Đại Hành cũng xây bằng đá nhưng nằm dưới chân Mã Yên Sơn đi về hướng nam. Trước lăng cũng có bia dựng từ đời Minh Mạng. Lăng mộ Đinh Bộ Lĩnh được đặt ở chính giữa núi, nơi võng xuống thấp mà dân gian hình dung là cái yên ngựa. Tương truyền, cách tôn thờ như vậy để đề cao tinh thần thượng võ của vua Đinh dù người đã mất.

Bia Cầu Dền là một tấm bia cổ, minh chứng xác thực cho sự xuất hiện chiếc cầu đá bắc qua sông Sào Khê và cũng là một cửa ngõ của kinh thành Hoa Lư từ thời nhà Đinh.[31]Hà Nội sau này, Ô Cầu Dền (Triền Riều) cũng là một cửa ngõ của kinh thành Thăng Long, xuất hiện trong sử từ thời Lý, thế kỷ XI- XII [32] Bia Cửa Đông (còn gọi là bia hang Thầy Bói) được tạc dưới chân núi Đầm, gọi cửa thành này là Đông Môn, là nơi bá quan văn võ qua lại mỗi khi vào triều bệ kiến. Nay còn địa danh xóm Đông Môn thuộc xã Trường Yên, và núi Thanh Lâu nằm cạnh đường còn gọi là Núi Cổng, nhưng vết tích của cửa thành thì hoàn toàn không còn do con đường qua đây luôn được cải tạo và mở rộng.[33] Cầu Đông là cây cầu bắc qua sông Sào Khê, nằm giữa vị trí hang thầy bói và chợ Cầu Đông mà dân gian có câu: "Bà già đi chợ cầu Đông, xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng, lợi thì có lợi nhưng răng không còn".

Hệ thống phủ, miếu

Phủ đột (đền Trình) ở Tràng An

Nằm rải rác trong khu dân cư cố đô Hoa Lư có rất nhiều các công trình lăng phủ cổ kính thờ các quan thời Đinh - Lê và các thái tử, công chúa ở 2 triều đại này. Phủ là nơi làm việc của quan lại thời Đinh Lê, khi kinh đô Hoa Lư trở thành cố đô thì phủ trở thành nơi thờ phụng.

  • Phủ Vườn Thiên nằm cách quảng trường trung tâm khu di tích cố đô Hoa Lư 600m. Phủ có kiến trúc y hệt quy mô của một ngôi đền với 3 tòa chầu vào sân giữa. Phủ Vườn Thiên thờ thái tử Lê Long Thâu, con cả vua Lê Đại Hành, là người cai quản Tháp Tư thiên. Tháp có nhiệm vụ quan sát thiên tượng, dự đoán thời tiết hàng ngày để tâu lên vua. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây chính là tháp đài mà năm 991 Tống Cảo - sứ nhà Tống đã tâu vua Tống rằng:
"...ở kinh đô Hoa Lư có một cái tháp nhiều tầng, kết gỗ dựng lên, hình dáng hơi thô lậu, Lê Hoàn có mời bọn hạ thần lên đó xem. Lê Hoàn hỏi: bên thượng quốc có cái tháp này không? Ấy là tháp đo khí hậu. Khí hậu nước này không rét, giữa tháng Chạp vẫn mặc áo đơn, dùng quạt".[34]
  • Phủ Đông Thành thuộc thôn Đông Thành thờ Đông Thành Vương, tức hoàng tử Lê Long Tích con thứ hai của Vua Lê Đại Hành; Tại đây còn phối thờ Khai Quốc Vương cai quản Hoa Lư sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long;
  • Phủ Đông Vương thuộc thôn Vàng Ngọc có tượng thờ Đông Thành Vương, tức hoàng tử Lê Long Tích con thứ hai của Vua Lê Đại Hành;
  • Phủ Phù Dung hay phủ Bà Chúa thuộc thôn Yên Trạch, gần chân núi Cột Cờ thờ công chúa Đinh Phù Dung, con Vua Đinh Tiên Hoàng và phò mã Trương Ma Sơn.
  • Phủ Bến Đò nằm ở bên sông Hoàng Long, thờ Đông Thái Đại Vương là vị quan coi cửa Bắc kinh đô Hoa Lư;
  • Phủ Cửa Đền thờ Ngũ Đạo Đại Vương, vị tướng phụ trách 5 đạo quân;
  • Phủ Vật thờ Cẩm Trà Đại Vương, tướng phụ trách tuyển quân, vào ngày 6/1 âm lịch có hội vật tưởng nhớ ông;
  • Phủ Chợ thờ Ngũ Lầu Đại Vương, quan phụ trách ca hát cùng phối thờ bà tổ hát Chèo Phạm Thị Trân. Vào 1/1 âm lịch tại đây có hát ca trù tưởng nhớ ông; vào ngày 12/8 âm lịch có hát Chèo tưởng nhớ bà tổ hát Chèo;
  • Phủ Đột (hay đền Trình) ở Tràng An là nơi thờ 2 vị quan nhà Đinh đã canh gách tại khu vực này; Đền Trần ở Tràng An do vua Trần Thái Tông xây dựng năm 1258, là nơi thờ thần Quý Minh, vị thần trấn cửa ải phía nam Hoa Lư tứ trấn;
  • Phủ Khống ở Tràng An là nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh, gắn với các truyền thuyết khi vua Đinh Tiên Hoàng qua đời. Tại đây còn cây thị nghìn năm tuổi mà quả có hai loại: 1 tròn và 1 dẹt.[35]
  • Phủ Thành Hoàng (còn gọi là đền Hành khiển thuộc thôn Áng Ngũ) thờ Nguyễn Bặc;
  • Phủ Làng Thong ở thôn Thong Bái thờ một vị tướng được tôn gọi là Vạn Dần Đại Vương phụ trách thủy quân thường xuyên luyện tập ở sông Sào Khê, đoạn gần hang Luồn suốt hai triều Đinh và Tiền Lê.
  • Phủ Thong Khống thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
  • Phủ Áng Lẫm thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
  • Phủ Liên Hoa thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
  • Phủ Áng Mương thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
  • Phủ Ngòi Gai thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.

Bảo vật quốc gia

Cố đô Hoa Lư không chỉ là khu di tích quốc gia đặc biệt quan trọng mà còn lưu giữ 4 bảo vật quốc gia đã được thủ tướng chính phủ công nhận là Cột kinh Phật tại chùa Nhất trụ; Long sàng trước Nghi môn ngoại và trước Bái đường Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng; Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Lê Đại Hành.

  • Long sàng trước Nghi môn ngoại và trước Bái đường Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng: Cố đô Hoa Lư, Ninh Bình là nơi lưu giữ hai chiếc sập đá vô cùng độc đáo, là một bảo vật vô tiền khoáng hậu trong mỹ thuật Việt Nam. Hai chiếc sập đá cũng có thể gọi là long sàng này là một trong những hiện vật quan trọng nhất của ngôi đền vua Đinh. Hai chiếc sập đá này xác lập những kỷ lục lần đầu tiên và duy nhất trong mỹ thuật Việt.[36]
  • Cột kinh Phật tại chùa Nhất trụ được dựng từ thế kỷ thứ X đến nay vẫn còn tại vị trí cũ. Với những nét độc đáo, Cột kinh Phật đã minh chứng cho thời kỳ phát triển rực rỡ đạo Phật ở Việt Nam. Đây là thời kỳ bắt đầu giành độc lập, thống nhất thể hiện sự khéo léo trong nghệ thuật trang trí, chạm khắc trên đá, nghệ thuật chế tác của ông cha ta thời bấy giờ. Với kiến trúc độc đáo trên, trải qua hàng ngàn năm nhưng các bộ phận của cột vẫn không tách rời và giữ được vẻ nguyên sơ.[37]
  • Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Đinh Tiên hoàng, bộ Phủ Việt đền thờ Vua Lê Đại Hành là những hiện vật gốc độc bản, được triều đình và nhân dân Hoa Lư tạo tác từ thế kỷ XVII làm đồ tế khí để thờ tự, tôn vinh và tưởng nhớ công đức Vua Đinh Tiên Hoàng, Vua Lê Đại Hành. Phủ Việt có cấu tạo độc đáo, họa tiết trang trí tinh tế, thể hiện tài năng sáng tạo của người Việt; có ý nghĩa quan trọng về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật truyền thống Việt Nam thế kỷ XVII, thể hiện sự giao thoa, tiếp biến, làm giàu có thêm giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.[38]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cố_đô_Hoa_Lư http://books.google.com/books?id=QfQyAAAAMAAJ http://books.google.com/books?id=befqNQAACAAJ http://books.google.com/books?id=hIBJPgAACAAJ http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/du-lich/2010/05/3ba... http://daitangkinhvietnam.org/lich-su-phat-giao/ph... http://afamily.vn/du-lich/20110208020146606/4-den-... http://baochinhphu.vn/Chi-dao-quyet-dinh-cua-Chinh... http://vanban.chinhphu.vn/portal/page?_pageid=578,... http://dantri.com.vn/van-hoa/bao-vat-quoc-gia-cot-...